So với nghiên cứu trước của BSA đã được công bố năm 2016, tỉ lệ này đã giảm tiếp 4%.
Theo BSA, tỉ lệ này chịu ảnh hưởng một phần bởi các xu hướng lớn đang diễn ra ở Việt Nam. Lượng tiêu thụ máy vi tính PC tuy giảm mạnh nhưng lượng cài đặt phần mềm tiêu dùng lại tăng, do kết quả của lượng tiêu thụ năm trước.
Vì thế, việc tỉ lệ phần mềm không phép giảm chủ yếu là kết quả của việc Việt Nam tiếp tục mở cửa thị trường, thực thi luật, tuyên truyền chứ không phải một yếu tố nội tại của thị trường.
Bên cạnh đó, BSA cũng cho rằng, số lượng cơ sở bán lẻ máy PC quy mô nhỏ đã giảm trong khi các nguồn cung cấp phần mềm đáng tin cậy hơn tăng.
Các lo ngại về vấn đề an ninh do sử dụng phần mềm không bản quyền khiến một số người tiêu dùng, doanh nghiệp tìm đến phần mềm hợp pháp, chí ít là các phần mềm an ninh.
Thực tế hiện nay trên khắp thế giới, các tổ chức đều có xu hướng sử dụng phần mềm để cải thiện cách thức làm ăn, nâng cao lợi nhuận, tiếp cận thị trường mới và tranh thủ lợi thế cạnh tranh.
Tuy vậy, những nỗ lực này bị cản trở bởi việc sử dụng tràn lan phần mềm không bản quyền và kéo theo các nguy cơ an ninh nghiêm trọng.
Mặc dù tỉ lệ sử dụng phần mềm không bản quyền có giảm nhẹ nhưng BSA nhận định thực trạng vẫn còn rất phổ biến.
Phần mềm không bản quyền vẫn được sử dụng trên toàn cầu với tỉ lệ đáng báo động, chiếm tới 37% tổng số phần mềm được cài đặt trên máy vi tính cá nhân, và tính từ năm 2016 chỉ giảm 2%.
Theo khảo sát của BSA từ các CIO (Chief Information Officer – Giám đốc CNTT), việc sử dụng phần mềm không bản quyền đang ngày càng tiềm ẩn nhiều rủi ro và có chi phí cao.
Mã độc từ phần mềm không bản quyền gây thiệt hại cho doanh nghiệp trên toàn thế giới gần 359 tỉ USD mỗi năm.
Do đó, việc tránh bị hack dữ liệu và các nguy cơ an ninh khác từ mã độc là lý do số một để bảo đảm cho mạng vi tính của doanh nghiệp sử dụng hoàn toàn phần mềm có giấy phép.